Du lịch Mỹ giúp du khách khám phá đất nước và con người Mỹ một quốc gia đa văn hóa, chủng tộc kéo dài từ Bờ Đông sang Bờ Tây. Đặt vé máy bay đi Mỹ sẽ đưa du khách khám phá những thành phố hiện đại và nhộn nhịp như New York với Tượng Đài Nữ Thần Tự Do, Thủ đô Washington DC, thành Phố Las Vegas, Mỹ hay quê hương của những bộ phim điệm ảnh lừng lẫy - Hollywood,...Hãy cùng United Airlines khám phá những điều nổi tiếng ở Mỹ qua bài viết sau:
Đặt vé máy bay đi Mỹ giá rẻ ở đâu?
Hiện tại, vé máy bay đi Mỹ tại United Airlines đang có mức giá tốt so với các đại lý khác. Bạn có thể sử dụng tính năng tìm kiếm vé rẻ tại United Airlines, chức năng so sánh giá giữa các hãng hàng không để tìm ra vé rẻ cho mình một cách rất nhanh chóng và tiện lợi.
Nếu không thông thạo các thao tác máy tính, bạn hoàn toàn có thể đến trực tiếp các văn phòng của United Airlines hoặc liên hệ hotline 028.3925.6479 để được các nhân viên tư vấn, hỗ trợ, giúp bạn tìm kiếm giá vé và đặt vé chính xác nhất.
Sau khi đặt thành công vé máy bay giá tốt, United Airlines luôn sẵn sàng hỗ trợ bạn 24/7 trong các vấn đề liên quan như tư vấn giấy tờ thủ tục bay, các quy định về hành lý, hỗ trợ check-in online, xử lý các vấn đề phát sinh liên quan đến vé máy bay… một cách chuyên nghiệp và hiệu quả. Với tấm vé máy bay đi Mỹ giá tốt đặt tại United Airlines, quý khách sẽ trải nghiệm trọn vẹn những điều nổi tiếng ở Mỹ.
Xem thêm: Điểm du lịch tự nhiên ở Mỹ
Giai đoạn lịch sử đầu thế kỷ XX đã sinh ra nhiều thương gia Việt Nam giàu có. Những doanh nhân này không chỉ làm giàu cho bản thân mà còn vì lòng yêu nước.
Cho đến đầu thế kỷ XX, nước ta chưa có lớp doanh nhân đúng nghĩa.
Cách mạng Tháng Tám đã mở ra một chân trời mới cho doanh nhân Việt Nam để phát triển trở thành một lực lượng dân tộc và tham gia vào công cuộc kiến quốc.
Không ít người hiến tặng cả cuộc đời và sản nghiệp cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
Giai đoạn lịch sử đầu thế kỷ XX đã sinh ra nhiều thương gia Việt Nam giàu có. Những doanh nhân này không chỉ làm giàu cho bản thân mà còn vì lòng yêu nước.
Họ biết gắn mục tiêu kinh doanh của mình với sự hưng vong của dân tộc. Họ luôn đề cao tinh thần và lòng tự hào dân tộc.
Bạch Thái Bưởi (1874-1932): tấm gương sáng, cổ vũ các thế hệ doanh nhân Việt vươn lên khẳng định mình
Trong lịch sử kinh tế nước nhà, cái tên Bạch Thái Bưởi có ý nghĩa vô cùng lớn. Cuộc đời, sự nghiệp của ông là một tấm gương sáng, cổ vũ các thế hệ doanh nhân Việt Nam vươn lên khẳng định mình. Với tinh thần dân tộc vô cùng mạnh mẽ “phải làm sao để ngọn cờ của công ty người Việt Nam ta phất phới trên năm châu bốn biển, để cả thế giới biết đến người Việt Nam và đất nước Việt Nam”, Bạch Thái Bưởi đã từ một người tay trắng trở thành một doanh nhân Việt Nam kiệt xuất trong những năm đầu thế kỷ XX.
Xuất thân từ một ký lục (nhân viên thư ký) cho hãng buôn của người Pháp ở phố Tràng Tiền, Hà Nội, năm 1894, ông chuyển sang làm cho một xưởng thuộc hãng thầu công chính, nơi lần đầu tiên ông được tiếp xúc, thu nhận những hiểu biết về máy móc, cách tổ chức, quản lý sản xuất.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, khi người Pháp bắt đầu công cuộc khai thác thuộc địa, mở mang đường sá, xây dựng cầu cống. Bạch Thái Bưởi tìm cơ hội trở thành đối tác cung cấp nguyên liệu cho dự án xây dựng tuyến đường sắt lớn nhất Đông Dương lúc bấy giờ, bắt đầu bằng việc xây cây cầu dài 3.500m nối Hà Nội với Gia Lâm.
Sau đó, ông bỏ vốn mua lại một hãng cầm đồ ở Nam Định, rồi mở hiệu cơm Tây ở Thanh Hóa, hãng rượu ở Thái Bình và làm cả cai thầu thuế chợ từ miền Bắc đến miền Trung.
Nghiệp kinh doanh lẫy lừng nhất cho Bạch Thái Bưởi bắt đầu vào năm 1909, khi ông thuê lại ba chiếc tàu của một doanh nghiệp Pháp và mở tuyến giao thông đường biển Nam Định-Hà Nội-Bến Thủy.
Tháng 4.1916, ông tuyên bố thành lập Giang hải luân thuyền Bạch Thái công ty, điều hành 17 tuyến đường thủy từ Hà Nội đến Tuyên Quang, vươn ra đến tận Hồng Kông, Nhật Bản, Philippines, Trung Quốc, Singapore...
Năm 1917, Hãng Deschwanden của Pháp bị phá sản, ông mua lại 6 chiếc tàu khác của hãng này. Ngày 7.9.1919, công ty của Bạch Thái Bưởi gây tiếng vang lớn khi cho hạ thủy tại Cửa Cấm (Hải Phòng) chiếc tàu Bình Chuẩn hoàn toàn do người Việt thiết kế, thi công. Cũng chính nhờ con tàu lớn đầu tiên của Việt Nam này mà Bạch Thái Bưởi được xưng tụng là “Vua tàu thủy Việt Nam."
Làm ăn với người Pháp, học tập kỹ thuật tân tiến của phương Tây, nhưng khi đặt tên các con tàu, ông đều lấy từ nguồn lịch sử của dân tộc như: Lạc Long, Trưng Trắc, Đinh Tiên Hoàng, Lê Lợi, Hàm Nghi…
Có lần lên tiếng bênh vực cho quyền lợi của người dân bị trị, trong Hội nghị Kinh tế lý tài, ông bị René Robin - Thống soái Bắc kỳ lúc đó - đe dọa: “Nơi nào có Robin thì không có Bạch Thái Bưởi,” ông đáp lại: “Nước này còn Bạch Thái Bưởi thì không còn Robin.”
Bạch Thái Bưởi được người đương thời và các thế hệ đi sau đánh giá là một nhà tư sản dân tộc, một doanh nhân giàu ý chí tự cường, một thương gia lớn, có tinh thần tự tôn dân tộc, một tâm hồn Việt…
Cũng vì thế mà ông trở thành khuôn mặt nổi tiếng của 30 năm đầu thế kỷ XX.
Ngô Tử Hạ (1882-1973): nhân sĩ yêu nước, thương dân
Trước cách mạng, nhà in nổi tiếng Ngô Tử Hạ là mạnh thường quân của các trí thức yêu nước muốn in ấn sách báo. Ngô Tử Hạ quê ở Quy Hậu, Kim Sơn, Ninh Bình, rời quê hương nghèo đói lên Hà Nội lập nghiệp, làm thợ cho nhà in IDEO của Pháp từ năm 17 tuổi.
Sau vài năm dành dụm, ông đã mua được máy in và mở cơ sở in của riêng mình. Sau đó, ông mua thêm nhiều máy in loại hiện đại, mở rộng phát triển ngành in và trở thành người nổi tiếng nhất Đông Dương trong lĩnh vực in ấn, là một trong 300 nhà tư sản giàu nhất Đông Dương thời đó.
Đầu năm 1945 ông tham gia Mặt trận Việt Minh. Các nhà in của ông trở thành cơ sở in sách báo, tài liệu tuyên truyền cổ động của Việt Minh,
Cách mạng Tháng Tám thành công, Ngô Tử Hạ là chí sĩ yêu nước được bầu làm đại biểu Quốc hội, rồi Ủy viên Ban thường trực của Quốc hội khóa I và là đại biểu cao tuổi nhất.
Khi đó Ngô Tử Hạ là người đứng đầu Hội cứu tế, cứu đói của Chính phủ đã hoạt động tích cực, tận tụy vào cuộc đấu tranh chống giặc đói của Nhà nước cách mạng, góp phần vào việc giữ nước trong những ngày đầu gian nan.
Năm 1960, gia đình cụ làm đơn xin hiến cho Chính phủ toàn bộ bất động sản mà gia đình đang sở hữu, chỉ giữ lại 200m2 để làm chỗ ở và nơi thờ tự.
Theo bản kê khai ngày 29.7.1960 về nhà đất hiến cho Nhà nước, gồm nhà 24-48 Lý Quốc Sư, nhà 2/12 Ngõ Huyện, biệt thự 60 Nguyễn Du, số nhà 8 Lý Quốc Sư, nhà số 4 ngõ 338 Thịnh Yên, nhà số 31 Hàng Bông.
Nguyễn Sơn Hà (1894-1980): ông tổ nghề sơn Việt có lòng yêu nước
Nguyễn Sơn Hà được biết đến như là người khai sinh nghề sản xuất sơn dầu ở Việt Nam và là một trong những doanh nhân hàng đầu của Việt Nam thời Pháp thuộc. Ông sinh ra tại huyện Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây trong một gia đình có 7 anh chị em.
Gia đình doanh nhân Nguyễn Sơn Hà
Năm 1917, sau thời gian dài làm cho hãng sơn Pháp Sauvage Cottu, Nguyễn Sơn Hà trở thành chủ của một công ty nhỏ thầu các việc sơn vôi, kẻ biển và âm thầm chế tạo thử sơn dầu. Vài năm sau, Hãng sơn Gecko của ông đã chiếm lĩnh thị trường.
Năm 1939, trong một lần vào Nam, ông tới thăm cụ Phan Bội Châu đang bị Pháp quản thúc tại Huế. Cuộc gặp gỡ này đã tác động sâu sắc đến ông và sau đó đã tham gia tích cực các hoạt động của Hội Trí tri, Hội Ánh sáng, thành lập Ban Cứu tế, Chi hội Truyền Bá quốc ngữ.
Cụ Nguyễn Văn Tố đã thân hành về Hải Phòng đề nghị ông làm Hội trưởng Hội Truyền bá Quốc ngữ Hải Phòng, Kiến An. Là nhà tư sản lớn và có uy tín, nên khi ông đứng ra làm Hội trưởng thì mọi tầng lớp nhân dân ở Hải Phòng, Kiến An ủng hộ rất mạnh.
Ông Nguyễn Sơn Hà là người có công rất lớn trong việc truyền bá quốc ngữ, giúp đỡ người nghèo. Trong nạn đói Ất Dậu, ông đã liên lạc với bạn bè cùng chí hướng, thuyết phục những người giàu có lập Hội Cứu tế để giúp đỡ dân nghèo. Ông cũng đấu tranh với Pháp, Nhật đòi mở kho tấm cám để cứu đói.
Trong Tuần Lễ Vàng do Chính phủ phát động, ông tích cực đóng góp tiền vàng và vận động các nhà tư sản khác và nhân dân mọi tầng lớp tham gia. Gia đình ông trong lần ủng hộ đầu tiên đã hiến tặng toàn bộ số nữ trang của gia đình, gồm vàng bạc, đá quý cân được 10,5 kg.
Vào những ngày đầu của “Toàn quốc kháng chiến”, ông cùng với các doanh nhân như Bùi Hưng Gia, Ngô Tử Hạ... đã tình nguyện hiến tài sản cho cách mạng.
Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, ông Nguyễn Sơn Hà đã cùng người em rể dùng tiền của ông ở đại lý sơn tại Sài Gòn tổ chức một đoàn tàu vượt biển ra Côn Đảo đón tù chính trị bị giam giữ trở về đất liền trước khi Pháp nổ súng gây hấn vào 23.9.1945.
Ông Nguyễn Sơn Hà là đại biểu Quốc hội khóa đầu tiên và tham gia cách mạng khi kháng chiến bùng nổ. Ông là người đã giúp bộ đội làm vải nhựa cách điện, sản xuất giấy than, mực in lito, vải che mưa, chế tạo được lương khô và thuốc ho…
Sau kháng chiến chống Pháp, ông trở về Hà Nội và tiếp tục trúng cử vào Quốc hội Việt Nam khoá khoá II, III, IV, V.
Đỗ Đình Thiện (1904-1972): người tư sản thành thư ký cho Chủ tịch Hồ Chí Minh
Ông Đỗ Đình Thiện sinh năm 1904 tại làng Noi (nay thuộc Cổ Nhuế, Từ Liêm, Hà Nội), có bố là thư ký cho một chủ đồn điền Pháp nhưng mất sớm. Ông Thiện được mẹ nuôi dưỡng cho học chữ Nho và chữ Quốc ngữ rồi sang Pháp du học.
Tại Pháp ông học trường Đại học Canh Nông (Toulouse), vừa học vừa tham gia hoạt động cách mạng, rồi vào Đảng Cộng sản Pháp năm 1928. Ông bị cảnh sát Pháp bắt giữ khi trao truyền đơn cách mạng cho những binh sỹ người Việt Nam đang trên đường hồi hương, bị kết án 4 tháng tù và bị trục xuất về nước.
Khi về nước ông vẫn tiếp tục bị kiểm soát gắt gao, không thể trực tiếp hoạt động cách mạng được, ông chuyển sang làm kinh tế, mở hiệu buôn bán tơ lụa rồi dựng nhà máy, lập đồn điền… để khi có điều kiện sẽ ủng hộ cách mạng, giúp đỡ các đồng chí mình hoạt động.
Năm 1946, trước khó khăn của Đảng không có nhà in riêng để in tiền, ông mua lại nhà in của Pháp và hiến cho Chính phủ để lập nhà in tiền. Tháng 3.1946, nhà máy in tiền Tôpanh được chuyển về đồn điền Chi Nê (Lạc Thủy, Hòa Bình) của gia đình ông.
Ông được cử phụ trách Quỹ Độc lập Trung ương ở Hà Nội, đóng góp nhiều tiền, vàng cho chính quyền cách mạng. Không những vậy, ông còn mua đấu giá bức tranh chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh do họa sỹ Nguyễn Sáng vẽ với giá một triệu đồng Đông Dương (khoảng gần 2.000 lạng vàng), sau đó tặng cho Ủy ban kháng chiến hành chính Thành phố Hà Nội.
Việc làm này của ông được đánh giá là để nhằm biểu thị lòng tin tưởng của nhân dân đối với lãnh tụ Hồ Chí Minh, chống lại những âm mưu xuyên tạc, phá hoại của các thế lực thù địch, đồng thời để tăng ngân sách cho chính quyền cách mạng.
Lúc mới giành được chính quyền, Nhà nước chưa có bộ phận lễ tân chuyên trách do vậy việc tiếp các vị khách đặc biệt được giao cho một số gia đình có điều kiện ở Hà Nội. Ngôi nhà ở 54 Hàng Gai của gia đình ông bà Thiện trở thành "nhà khách" của Chính phủ.
Đồn điền Chi Nê không những trở thành nơi dưỡng quân cho các đơn vị trước khi lên đường vào Nam chiến đấu, điểm dừng chân của nhiều lãnh đạo Đảng. Từ cuối năm 1945 đầu năm 1946, nơi đây còn là cơ sở cung cấp lương thực, thực phẩm, trú quân cho các đơn vị lực lượng vũ trang Chiến khu 2.
Trong chuyến đi Pháp năm 1946, ông còn trở thành thư ký riêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Năm 1947, ông bà Đỗ Đình Thiện đưa cả gia đình gồm mẹ già và 4 con nhỏ lên Việt Bắc theo cuộc kháng chiến 9 năm.
Ông bà đã giao lại đồn điền Chi Nê cho Ban Kinh tài của Đảng quản lý, đồng thời đóng góp gần nửa cổ phần để xây dựng Việt Nam công thương Ngân hàng (tiền thân của Ngân hàng quốc gia Việt Nam).
Trịnh Văn Bô (1914-1988): hiến gia tài cho cách mạng
Ông Trịnh Văn Bô là con út trong gia đình 3 anh chị em, cha là cụ Trịnh Phúc Lợi, một doanh nhân Việt Nam đầu thế kỷ XX.
Năm 1932, ông lập gia đình với bà Hoàng Thị Minh Hồ, con gái của cụ Hoàng Đạo Phương, một nhà nho và cũng là thương gia giàu có. Bà Minh Hồ đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp kinh doanh của chồng.
Ông Trịnh Văn Bô cùng vợ đặt cửa hiệu buôn vải sợi Phúc Lợi tại ngôi nhà số 48 Hàng Ngang. Tầng hai của hiệu buôn sầm uất này từng là nơi ở của nhiều cán bộ lãnh đạo cách mạng cấp cao của Việt Nam khi chuyển hoạt động từ chiến khu về Hà Nội, trong đó có cả Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chính nơi đây, Bác đã khởi thảo và hoàn thành bản Tuyên Ngôn độc lập.
Thời điểm 1940, ông Trịnh Văn Bô được xem là một trong những người giàu có bậc nhất đất Hà Thành, giao thương với cả các bạn hàng ở Đông Dương, sở hữu một nhà máy dệt và kinh doanh bất động sản.
Trong "Tuần lễ vàng," gia đình ông đã ủng hộ tới 5.147 lượng vàng, tương đương 2 triệu đồng Đông Dương cho Chính phủ. Không những thế, vợ chồng ông Trịnh Văn Bô còn là thành viên cốt cán trong Ban vận động "Tuần lễ vàng."
Nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh cụ Trịnh Văn Bô, mừng đại thọ 100 tuổi của cụ bà Hoàng Thị Minh Hồ (1914-2014), Bộ Tài chính biên soạn cuốn sách “Doanh nhân Trịnh Văn Bô và những cống hiến cho nền tài chính cách mạng Việt Nam” nhằm vinh danh những công lao, đóng góp của gia đình ông, đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
"Ông vua tàu thủy Việt Nam" Bạch Thái Bưởi
Khi nhắc đến những doanh nhân giàu có nhất Việt Nam đầu thế kỷ 20, Bạch Thái Bưởi được liệt vào hàng "tứ đại gia" không chỉ của Việt Nam mà là xứ Đông Dương.
Bạch Thái Bưởi sinh năm 1874, trong một gia đình nông dân nghèo, họ Đỗ ở làng An Phúc (Yên Phúc), Thanh Trì, Hà Đông (nay thuộc Hà Nội). Cha ông mất sớm, nên ông phải giúp mẹ sinh sống bằng nghề bán hàng rong. Lúc ấy có một nhà phú hào họ Bạch thấy ông thông minh, lanh lợi, nên nhận làm con nuôi và đổi lại họ Bạch. Nhờ đó, ông có cơ hội ăn học. Bạch Thái Bưởi được đi học chữ quốc ngữ, chữ Pháp.
Năm 20 tuổi, ông bắt đầu chú tâm việc kinh doanh nhưng mọi thứ còn mơ hồ. Nhờ thông minh, ông được Phủ Thống sứ Bắc Kỳ cử sang Pháp dự hội chợ Bordeaux. Ông tập trung tìm hiểu việc kinh doanh của người Pháp. Sau chuyến đi ngắn ngủi đó, trên tàu về nước, ông bắt đầu nung nấu ý tưởng làm kinh doanh.
Nhận thấy cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, người Pháp bắt đầu công cuộc khai thác thuộc địa, mở mang đường sá, xây dựng cầu cống, Bạch Thái Bưởi tìm được cơ hội trở thành đối tác cung cấp nguyên liệu cho dự án xây dựng tuyến đường sắt lớn nhất Đông Dương lúc bấy giờ, bắt đầu bằng việc xây cây cầu dài 3.500m nối Hà Nội với Gia Lâm (cầu Long Biên). Năm 1902, cầu được khánh thành cũng là lúc ông đã có số vốn lận lưng kha khá.
Sau đó, ông bỏ vốn mua lại một hãng cầm đồ ở Nam Định, rồi mở hiệu cơm Tây ở Thanh Hóa, đại lý rượu ở Thái Bình và có một thời gian làm cai thầu thuế chợ từ miền Bắc đến miền Trung.
"Ông vua tàu thủy Việt Nam" Bạch Thái Bưởi.
Nghiệp kinh doanh đem đến danh tiếng lẫy lừng cho doanh nhân họ Bạch bắt đầu khi ông chuyển hướng sang kinh doanh vận tải đường thủy, nơi mà những thương nhân Hoa Kiều gần như đang độc quyền chiếm lĩnh. Chính quyết định này là khởi nguồn cho danh hiệu "Vua tàu thủy Việt Nam" hay "Chúa sông Bắc Kỳ" của Bạch Thái Bưởi sau này.
Năm 1909, ông lập Công ty hàng hải Bạch Thái Bưởi, thuê lại 3 chiếc tàu Phenix, Dragon và Fai Tsi Long, đổi tên chúng thành Phi Phụng, Phi Long và Bái Tử Long để kinh doanh vận tải đường thủy trên hai tuyến Nam Định - Bến Thủy (Nghệ An) và Nam Định - Hà Nội.
Từ chỗ có 3 tàu đi thuê, khai thác trên 2 tuyến đường thủy, sau 10 năm, công ty của ông đã sở hữu gần 30 tàu lớn bé và sà lan chạy hầu hết tuyến sông nước miền Bắc, chạy trên 17 tuyến hàng hải trong và ngoài nước, vươn đến tận Hồng Kông, Nhật Bản, Philippines, Trung Quốc, Singapore... Đặc biệt, trong đó có 6 chiếc tàu của hãng tàu Pháp bị phá sản được ông mua lại đặt cho những tên: Lạc Long, Hồng Bàng, Trưng Trắc, Đinh Tiên Hoàng, Lê Lợi, Hàm Nghi.
Ngày 7/9/1919, công ty của Bạch Thái Bưởi đã làm rạng danh ngành hàng hải Việt Nam khi cho hạ thủy tại Cửa Cấm (Hải Phòng) chiếc tàu Bình Chuẩn hoàn toàn do người Việt thiết kế, thi công. Tàu dài đến 42m, trọng tải 600 tấn, động cơ 400 mã lực, cập cảng Sài Gòn ngày 17/9/1920. Sự kiện này đã làm nức lòng giới kinh doanh Nam kỳ, họ đã đúc bảng đồng với dòng chữ: "Tặng tàu Bình Chuẩn, chiếc tàu Việt Nam đầu tiên tại cảng Sài Gòn". Cũng chính nhờ con tàu lớn đầu tiên của Việt Nam này mà Bạch Thái Bưởi được xưng tụng là "Vua tàu thủy Việt Nam".
Mặc dù tiếp xúc thường xuyên với người Pháp, học tập kỹ thuật tân tiến của người phương Tây, nhưng chưa bao giờ Bạch Thái Bưởi đánh mất cội nguồn dân tộc của mình. Ngay việc đặt tên cho các con tàu, ông đều lấy từ nguồn lịch sử của dân tộc chứng tỏ thương gia này có tinh thần tự tôn dân tộc rất lớn.
Thậm chí, có lần lên tiếng bênh vực cho quyền lợi của người dân bị trị, trong Hội nghị kinh tế lý tài, ông bị René Robin – Thống soái Bắc kỳ lúc đó – đe dọa: "Nơi nào có Robin thì không có Bạch Thái Bưởi", ông đáp lại: "Nước này còn Bạch Thái Bưởi thì không còn Robin".
Bạch Thái Bưởi được người đương thời và các thế hệ đời sau đánh giá là một nhà tư sản dân tộc, một doanh nhân giàu ý chí tự cường, một thương gia lớn và có tinh thần tự tôn dân tộc chính vì những đóng góp của ông vào ngành hàng hải khởi đầu của nước nhà.
Ngày 22/7/1932, ông mất đột ngột tại Hải Phòng bởi một cơn đau tim. Cái tên Bạch Thái Bưởi từ đó đi vào huyền thoại, bên cạnh những nhà tư sản yêu nước của dân tộc đầu thế kỷ 20.
Nguyễn Sơn Hà – "Ông tổ" ngành sơn Việt Nam
Nguyễn Sơn Hà (1894 – 1980) là một trong những doanh nhân hàng đầu của Việt Nam thời Pháp thuộc. Ông được biết đến như là người khai sinh nghề sản xuất sơn dầu ở Việt Nam.
Nguyễn Sơn Hà sinh ra tại huyện Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây (nay thuộc Hà Nội) trong một gia đình có 7 anh chị em. Cha mất khi ông mới 14 tuổi, ông phải bỏ học xin làm phụ bàn giấy cho một hãng buôn của Pháp. Sau đó do lương thấp, ông đã bỏ sang làm cho hãng sơn dầu Sauvage Cottu ở Hải Phòng.
Nhận thấy tiềm năng kinh doanh của ngành sơn, tuy vào làm ở hãng sơn Pháp Sauvage Cottu nhưng Nguyễn Sơn Hà không ngừng nung nấu ý chí tạo dựng một hãng sơn dầu của người Việt Nam.
Ông ý thức được rằng, muốn làm được như vậy, trước hết phải học, phải hiểu kỹ thuật làm sơn của người phương Tây. Nhưng cái khó lúc đó là tất cả các tài liệu kỹ thuật này đều viết bằng tiếng Pháp. Để đọc được tủ sách của chủ, ban ngày ông làm việc chăm chỉ, buổi tối tìm thầy học thêm tiếng Pháp, đọc hết tủ sách của ông chủ.
Doanh nhân, nhà yêu nước Nguyễn Sơn Hà.
Năm 1917, sau khi nắm được cơ bản công nghệ làm sơn và đã tích lũy chút vốn liếng, ông nghỉ làm ra riêng mở tiệm. Vốn liếng ban đầu là tiền thu được từ bán chiếc xe đạp, ông mở cửa hàng bán sơn, nhận quét sơn nhà, kẻ biển và bên trong âm thầm chế tạo một sản phẩm sơn riêng cho mình.
Sản phẩm đầu tiên xưởng của ông tung ra thị trường mang thương hiệu Résistanco, tiếng Pháp có nghĩa là "bền chặt", nhưng lại không được người Pháp đánh giá cao. Không bỏ cuộc, ông tiếp tục miệt mài nghiên cứu và cuối cùng, nhiều mẫu sơn hoàn hảo ra đời với cái tên Résistanco A, Résistanco B dùng cho sơn xe đạp, Durolac để sơn ô tô, Ideal để sơn tường... Chất lượng không thua sơn của Pháp nhưng giá thấp hơn nhiều.
Hãng Descous et Cabaud thấy sơn Résistanco đã có chỗ đứng trên thị trường nên nhận làm đại lý. Từ đó, sơn Résistanco bắt đầu được tiêu thụ khắp nơi trong nước.
Đến năm 1920, khi vừa tròn 26 tuổi, ông mở được xưởng sơn tại Hải Phòng, rộng 7.000m2, lấy tên là Gecko. Từ Hà Nội, Huế, Hội An, Sài Gòn, sơn Résistanco vượt biên giới sang Campuchia, Thái Lan, Lào… và được tiêu thụ nhanh đến mức làm không đủ bán. Người Pháp tìm đủ mọi cách chèn ép việc kinh doanh của gia đình, nhưng ông quyết giữ sự hưng thịnh của nền công nghiệp bản địa, khiến nhà cầm quyền phương Tây phải kinh sợ.
Năm 1939, trong một lần vào miền Nam, Nguyễn Sơn Hà cùng vợ tới thăm Phan Bội Châu đang bị Pháp quản thúc tại Huế. Lần gặp gỡ nhà yêu nước Phan Bội Châu ở Huế đã tác động sâu sắc đến doanh nhân Nguyễn Sơn Hà.
Với vị trí một nhà tư sản có uy tín trong giới công thương thành phố Hải Phòng, Nguyễn Sơn Hà tranh cử hội đồng thành phố. Ông cũng tham gia tích cực các hoạt động của Hội Trí tri, Hội ánh sáng, thành lập Ban Cứu tế, Chi Hội Truyền Bá quốc ngữ.
Ông từng đấu tranh với Pháp, Nhật đòi mở kho tấm cám để cứu đói, đứng ra lập trường Dục Anh tại số nhà 46, phố Lạch Tray để nuôi dạy các em bé mồ côi. Trong "Tuần lễ vàng", ông và gia đình đã hiến toàn bộ nữ trang với khoảng 10,5kg cho cách mạng.
Sau khi người con trai cả tên Nguyễn Sơn Lâm - Đội trưởng Tự vệ Hải Phòng - hy sinh trong những ngày đầu toàn quốc kháng chiến tại mặt trận Đông Khê (Hải Phòng), Nguyễn Sơn Hà đã quyết định đi theo con đường giải phóng dân tộc: bỏ lại toàn bộ tài sản như nhà xưởng, đồn điền, tiền của… đưa toàn bộ gia đình đi theo kháng chiến, mặc dù nhận được nhiều đề nghị từ phía thực dân Pháp sẽ trả lại hoặc đền bù tài sản bị thiệt hại nếu như ông từ bỏ kháng chiến.
Sau Cách mạnh tháng Tám, Nguyễn Sơn Hà trúng cử đại biểu Quốc hội khóa đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Hải Phòng. Từ đây, ông có nhiều đóng góp cho cách mạng thông qua những sáng kiến của mình, như làm vải nhựa cách điện, sản xuất giấy than, mực in, vải che mưa, chế tạo lương khô, thuốc ho.
Sau kháng chiến chống Pháp, ông trở về Hà Nội và tiếp tục trúng cử vào Quốc hội Việt Nam khoá khoá II, III, IV, V. Ông mất tại Hải Phòng năm 1980.
Doanh nhân Trịnh Văn Bô hiến hơn 5.000 lượng vàng cho cách mạng
Thương gia Trịnh Văn Bô (1914 - 1988), là con út trong gia đình có 3 anh chị em, quê ở làng Bãi, Cao Viên, Thanh Oai, Hà Tây (nay thuộc Hà Nội). Gia đình ông có truyền thống kinh doanh, thân sinh là cụ Trịnh Phúc Lợi, một doanh nhân Việt Nam thành đạt đầu thế kỷ 20, chủ hiệu buôn Phúc Lợi.
Năm 1932, ông lập gia đình với bà Hoàng Thị Minh Hồ, con gái của cụ Hoàng Đạo Phương, một nhà nho và cũng là thương gia giàu có đất Hà Nội xưa. Trong sự nghiệp kinh doanh của chồng, bà Minh Hồ đóng một vai trò quan trọng.
Thương gia Trịnh Văn Bô và vợ Hoàng Thị Minh Hồ.
Ông Bô cùng vợ là chủ nhân của cửa hiệu buôn vải sợi Phúc Lợi đặt tại ngôi nhà số 48 Hàng Ngang. Tầng hai của hiệu buôn sầm uất Phúc Lợi từng là nơi ở của nhiều cán bộ lãnh đạo cách mạng cấp cao của Việt Nam khi chuyển hoạt động từ chiến khu về Hà Nội, trong đó có cả Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chính nơi đây, Bác Hồ đã khởi thảo và hoàn thành bản Tuyên ngôn độc lập lịch sử.
Cho đến giữa năm 1940, ông Bô được xem là một trong những người giàu có bậc nhất đất Hà Thành, có bạn hàng tại các nước Đông Dương, sở hữu một nhà máy dệt và kinh doanh cả ngành bất động sản.
Không chỉ nổi tiếng trong lĩnh vực kinh doanh, tên tuổi của ông Trịnh Văn Bô còn được biết đến qua những hoạt động từ thiện và sự đóng góp cho cách mạng Việt Nam. Là thương nhân giàu có, nhưng gia đình ông lại kinh doanh trên triết lý "Buôn bán 10 đồng thì giữ lại 7, còn lại giúp đỡ người nghèo và làm việc phúc đức".
Mùa thu năm 1945, bên cạnh niềm hân hoan giành chính quyền từ tay phát xít Nhật, Chính phủ lâm thời mới thành lập gặp nhiều khó khăn về tài chính. Kho bạc Trung ương lúc đó đối mặt với khoản nợ ngắn hạn phải thanh toán lên đến 564 triệu đồng, trong khi ngân khố chỉ còn hơn 1,2 triệu đồng Đông Dương, mà gần một nửa là tiền rách chờ thu đổi.
Trong thế "ngàn cân treo sợi tóc", Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra sáng kiến thành lập Quỹ Độc lập và "Tuần lễ vàng" nhằm thu nhận tài chính và hiện vật nhân dân quyên góp cho Chính phủ. "Tuần lễ vàng" được phát động, gia đình ông Trịnh Văn Bô đã ủng hộ tới 5.147 lượng vàng, tương đương 2 triệu đồng Đông Dương cho Chính phủ.
Ngoài ra, vợ chồng ông Trịnh Văn Bô còn là thành viên cốt cán trong Ban vận động "Tuần lễ vàng", khích lệ giới công thương và các tầng lớp nhân dân quyên góp được 20 triệu đồng Đông Dương và 370kg vàng.
Có thể nói, ông Trịnh Văn Bô và gia đình là tấm gương tiêu biểu trong giới doanh nhân, ủng hộ vô điều kiện cho một chính phủ còn non trẻ. Người vợ của ông có một triết lý thật giản dị: "Vợ chồng tôi có 4 bàn tay, 2 khối óc, đóng góp hết rồi chúng tôi sẽ làm ra. Độc lập dân tộc không thể để mất, vì mất rồi bao giờ thế hệ sau mới lấy lại được". Câu nói bất hủ này là của bà được lưu lại trong sử sách hội đồng họ Trịnh Việt Nam.
Tên ông Trịnh Văn Bô được đặt cho một con đường to đẹp mới mở ở Hà Nội.
Hơn một tháng sau ngày tuyên bố Việt Nam độc lập, ngày 13/10/1945, Hồ Chủ tịch đã gửi một bức thư cho giới công thương, trong đó nhấn mạnh rằng "Chính phủ, nhân dân và tôi sẽ tận tâm giúp đỡ giới thương nhân trong công cuộc kiến thiết này".
Bức thư này, cho đến nay vẫn được xem là bằng chứng rõ nhất cho thấy thông điệp rất rõ ràng của Bác Hồ về vai trò quan trọng của giới công thương, lực lượng được xác định là sẽ "phải hoạt động để xây dựng một nền kinh tế và tài chính vững vàng và thịnh vượng", trong khi "các giới khác trong quốc dân ra sức hoạt động để giành lấy nền hoàn toàn độc lập của nước nhà".
Chính những tư tưởng được thể hiện trong bức thư này là cơ sở để từ năm 2004, Chính phủ đã công nhận ngày 13/10 hàng năm là "Ngày Doanh nhân Việt Nam".
Ngày 13/10 hàng năm được chọn là Ngày doanh nhân Việt Nam, mở ra một trang mới trong lịch sử kinh tế Việt Nam, khi doanh nhân được thừa nhận có một vai trò quan trọng trong sự phát triển của quốc gia.
Nhân ngày Doanh nhân Việt Nam (13/10/2006), Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đã truy tặng các ông Nguyễn Sơn Hà, Bạch Thái Bưởi, Trịnh Văn Bô danh hiệu Doanh nhân Việt Nam tiêu biểu.